Vitamin A cần cho hoạt động của mắt, nhất là khả năng nhìn trong bóng tối. Vitamin A còn có chức năng chống khô da, cần cho sự phát triển xương và khả năng chống nhiễm khuẩn.
3 giai đoạn của bệnh khô mắt vì thiếu vitamin A
1. Quáng gà: Là dấu hiệu sớm nhất, trẻ có hiện tượng không nhìn rõ trong điều kiện thiếu ánh sáng (khi mặt trời nhá nhem tối):
- Chập choạng tối trẻ thường trở nên nhút nhát, chỉ ngồi một chỗ, không dám đi lại, đùa nghịch.
- Trẻ lớn hơn, đi lại khó khăn vào buổi tối, hay vấp ngã, đi lại trong nhà phải lần tường, hay va vấp vào các đồ vật trong nhà.
- Trẻ nhỏ chưa biết đi, có thể dựa vào các dấu hiệu: không biết tìm nhặt đồ chơi và buổi tối, không biết tìm và cầm thức ăn, đồ chơi, khi mẹ đưa cho phải quờ quạng.
- Phát hiện sớm bệnh khô mắt ở giai đoạn quáng gà, khả năng điều trị sẽ không có gì khó khăn, bệnh có thể khỏi hoàn toàn.
2. Khô mắt:
Trước hết là khô kết mạc, giác mạc không nhẵn, có thể xù xì, kém trong suốt, màu vàng như sáp ong, dần dần chuyển màu đục, không thấm nước. Kết mạc có thể nhăn nheo, có nếp gấp, trong một số trường hợp ở giai đoạn muộn của khô kết mạc, trên bề mặt kết mạc tích đọng những chất có màu kem, sáng bóng và không có bọt, thường đọng lại ở các góc khe mi phía dưới của kết mạc.
Sau đó là khô giác mạc: biểu hiện trẻ sợ ánh sáng chói mắt, hay nheo mắt, không chịu mở, khi nằm trẻ thường quay mặt vào trong tường… giác mạc sần sùi, mất tính nhẵn bóng, sau đó mờ đục “như có làn sương phủ” hoặc có màu hơi xanh biếc. Nếu bị bội nhiễm thì có thể có xuất tiết hay có mủ.
3. Loét nhuyễn giác mạc: Là tổn thương nặng, không thể phục hồi hoàn toàn.
Nếu loét nhẹ và nông: giác mạc bị viêm, phù nề, cương tụ máu, mắt bị nhiễm khuẩn nặng, nhưng nếu điều trị kịp thời, vết loét có thể liền nhanh để lại sẹo nhỏ và mỏng, thị lực giảm nhiều.
Nếu loét sâu và rộng, hoại tử mềm, có thể gây thủng, lồi mống mắt, phôi thủy tinh thể, để lại sẹo dày, gây ảnh hưởng nặng nề cho thị lực và gây mù rất nguy hiểm cho trẻ em.
Biện pháp phòng và chống bệnh khô mắt
+ Giáo dục dinh dưỡng:
- Cho trẻ nhỏ bú mẹ ngay sau khi đẻ, càng sớm càng tốt (sữa non có nhiều vitamin A). Bú mẹ theo nhu cầu của con. Nên cai sữa muộn, khi trẻ được 18 tháng đến 24 tháng.
- Từ tháng thứ 5 trở đi, ngoài sữa mẹ phải cho trẻ ăn thêm các thức ăn bổ sung, nhất là các quả, củ có màu vàng, màu đỏ như:cà rốt, bí đỏ, đu đủ, cà chua, và các loại rau xanh nấu chín nghiền nhỏ với bột (tô màu cho bát bột).
- Bà mẹ có thai và cho con bú cần ăn thêm các loại thức ăn và hoa quả có nhiều vitamin A.
+ Dùng viên nang vitamin A phòng bệnh cho trẻ
- Trẻ dưới 12 tháng: uống viên nang 100.000 đơn vị. Cách 6 tháng uống 1 viên.
- Trẻ 1 tuổi đến 5 tuổi: uống viên nang 200.000 đơn vị. Cách 4-6 tháng uống 1 viên.
- Phụ nữ có thai không cho vitamin liều cao vì có thể gây biến dị với thai nhi. Vì vậy khi có biểu hiện thiếu vitamin A chỉ cho liều thấp (không quá 10.000 đơn vị/ ngày).
- Ngay sau khi đẻ hoặc trong vòng tháng đầu sau khi đẻ, có thể cho một liều vitamin A 200.000 đơn vị để tăng lượng vitamin A trong sữa.
- Trong thời gian cho con bú, nếu người mẹ thiếu vitamin A thì có thể cho vitamin với liều thấp 10.000đv/ngày.
- Không dùng liều cao vì có thể ảnh hưởng tới thai nhi nếu trong thời gian cho con bú, người mẹ lại có thai.
+ Cán bộ y tế cần hướng dẫn cho bà mẹ phát hiện được quáng gà, dấu hiệu sớm nhất của bệnh khô mắt do thiếu vitamin A, để điều trị kịp thời. Hướng dẫn bà mẹ tìm nguồn các thức ăn giàu vitamin A ở địa phương.
+ Khi trẻ có biếu hiện thiếu vitamin A, cần điều trị kịp thời:
- Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi: cho uống viên nang 100.000 đơn vị
- Trẻ trên 1 tuổi: cho uống 200.000 đơn vị.
Hy vọng với những thông tin trên đây mẹ có thể kịp thời phát hiện bệnh và điều trị nhanh chóng để giúp bé phát triển an toàn và khỏe mạnh trong những năm đầu đời.